QUYỀN ĐƠN PHƯƠNG CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG

  Thứ Sat, 17/04/2021  (0)Bình luận

Bộ luật lao động 2012 quy định về quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động như sau:

“Điều 37. Quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động

1. Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn, hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trước thời hạn trong những trường hợp sau đây:

a) Không được bố trí theo đúng công việc, địa điểm làm việc hoặc không được bảo đảm điều kiện làm việc đã thỏa thuận trong hợp đồng lao động;

b) Không được trả lương đầy đủ hoặc trả lương không đúng thời hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng lao động;

c) Bị ngược đãi, quấy rối tình dục, cưỡng bức lao động;

d) Bản thân hoặc gia đình có hoàn cảnh khó khăn không thể tiếp tục thực hiện hợp đồng lao động;

đ) Được bầu làm nhiệm vụ chuyên trách ở cơ quan dân cử hoặc được bổ nhiệm giữ chức vụ trong bộ máy nhà nước;

e) Lao động nữ mang thai phải nghỉ việc theo chỉ định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền;

g) Người lao động bị ốm đau, tai nạn đã điều trị 90 ngày liên tục đối với người làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn và một phần tư thời hạn hợp đồng đối với người làm việc theo hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng mà khả năng lao động chưa được hồi phục.”

Như vậy, chỉ khi nào đáp ứng các điều kiện tại khoản 1 Điều 37 Bộ luật lao động 2012  thì người lao động mới được đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đúng pháp luật. Điều này gây khó khăn cho người lao động bởi nếu công việc hiện tại của họ không còn phù hợp và họ không còn động lực để tiếp tục làm việc thì họ không thể đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đúng pháp luật, trong trường hợp này nếu người lao động vẫn muốn nghỉ việc và thay đổi môi trường công việc thì phải đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật. Thì khi đó, người lao động sẽ không được hưởng trợ cấp thất nghiệp, điều này gây ảnh hưởng đến quyền lợi chính đáng của người lao động.

Từ đó nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập từ việc áp dụng các trường hợp đơn phương chấm dứt Hợp đồng lao động của người lao động thì hiện nay Điều 35 Bộ luật Lao động năm 2019 cho phép người lao động được quyền đơn phương chấm dứt Hợp đồng lao động mà không cần lý do mà chỉ cần báo trước cho Người sử dụng lao động biết trước, cụ thể: thời hạn báo trước là 30 ngày với Hợp đồng lao động xác định thời hạn và 45 ngày với Hợp đồng lao động không xác định thời hạn. Đây là điểm mới so với Bộ luật lao động 2012 thay vì Người lao động phải có lý do và tuân thủ đúng về việc thông báo trước khi chấm dứt Hợp đồng lao động như trước đây. Quy định này nhằm tạo điều kiện cho người lao động có được cơ hội việc làm tốt hơn, phù hợp với bản thân cũng như giúp doanh nghiệp có thời gian bố trí, sắp xếp nhân lực thay thế.

Như vậy, có thể thấy với sự thay đổi này đã tạo thuận lợi cho người lao động khi họ muốn tìm được công việc khác phù hợp với nghề nghiệp, chuyên môn và sở thích của mình hơn. Bởi tại Điều 43 Bộ luật Lao động năm 2012, quy định về nghĩa vụ của người lao động khi đơn phương chấm dứt Hợp đồng lao động trái pháp luật sẽ không được trợ cấp thôi việc và phải bồi thường cho người sử dụng lao động nửa tháng tiền lương theo Hợp đồng lao động. Nếu vi phạm quy định về thời hạn báo trước thì phải bồi thường cho chủ doanh nghiệp một khoản tiền tương ứng với tiền lương của người lao động trong những ngày không báo trước. Đồng thời, phải hoàn trả chi phí đào tạo cho người sử dụng lao động theo quy định tại Điều 62 của Bộ luật này. Tuy nhiên, Bộ luật Lao động năm 2019 sửa đổi, người lao động sẽ được đơn phương chấm dứt Hợp đồng lao động nếu cảm thấy công việc hiện tại không phù hợp và sẽ không phải đền bù hợp đồng cho chủ doanh nghiệp.

Bộ luật lao động 2019 còn quy định một số trường hợp ở đó người lao động còn được đơn phương chấm dứt Hợp đồng lao động mà không cần phải báo trước nếu như: không được bố trí theo đúng công việc, địa điểm làm việc hoặc không được bảo đảm điều kiện làm việc theo thỏa thuận; không được trả đủ lương hoặc trả lương không đúng thời hạn; bị người sử dụng lao động ngược đãi, đánh đập hoặc có lời nói, hành vi nhục mạ, hành vi làm ảnh hưởng đến sức khỏe, nhân phẩm, danh dự; bị cưỡng bức lao động; người sử dụng lao động cung cấp thông tin không trung thực.

Như vậy, có thể thấy Bộ luật lao động 2019 đã phần nào cải thiện được những hạn chế của Bộ luật lao động 2012 về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động, đảm bảo các quyền lợi chính đáng của người lao động.

Viết bình luận của bạn:
LAWFLEX LAWFLEX LAWFLEX